Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
-Lý Thường Kiệt-
Dải đất nay là Hà Nội có dân cư từ vài ngàn năm trước nhưng cái tên gọi Hà Nội thì chỉ có từ năm 1831. Nguyên là từ năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô ra thành Ðại La, đổi gọi thành này là kinh đô Thăng Long. Kinh đô ngày ấy ứng với quận Hoàn Kiếm và một phần của hai quận Ðống Ða, Hai Bà Trưng ngày nay. Sau đó địa giới Thăng Long dần mở rộng và tới cuối thế kỷ 18 thì tương ứng với năm quận nội thành bây giờ. Năm 1802, nhà Nguyễn lên ngôi dời đô về Huế, Thăng Long không còn là Kinh đô nữa và ít lâu sau bị đổi gọi là phủ Hoài Ðức.
Năm 1831, có một cuộc cải cách hành chính lớn: xoá bỏ các trấn, thành lập các tỉnh. Từ đó ra đời tỉnh Hà Nội. Sở dĩ có tên gọi này vì tỉnh mới nằm trong (nội) hai con sông (hà) là sông Hồng và sông Ðáy, gồm có 4 phủ, 15 huyện. Tỉnh lỵ đặt tại thành Thăng Long cũ, do vậy Thăng Long được gọi là tỉnh thành Hà Nội rồi nói gọn lại là Hà Nội.
Năm 1883, Pháp chiếm đóng Hà Nội. Năm 1886 họ thành lập "thành phố Hà Nội", ban đầu chỉ có 3 km2, đến năm 1939 là 12 km2 với số dân là 30 vạn.
Trở lại cái ngày Lý Thái Tổ định đô mới, truyền thuyết có kể rằng khi vua Lý tới bến sông Cái (một tên gọi khác của sônh Hồng), thì có con rồng vàng hiện trên sông rồi bay lên cao. Vua cho là điềm lành, đặt tên kinh đô mới là Thăng Long (Rồng lên). Câu chuyện "Rồng lên" đó nói lên khí thế vươn mình của thủ đô mới đang bước lên vũ đài lịch sử, gánh vác sứ mệnh làm trái tim của một quốc gia đã có mấy nghìn năm dựng nước.
Cũng từ đây Thăng Long ghi nhiều chiến công hiển hách!
Thế kỷ 13, Thăng Long ba lần "thành không nhà trống" dồn quân xâm lược nhà Nguyên vào thế bị đói, bị động, để rồi bị quét sạch ra khỏi bờ cõi.
Tới đầu thế kỷ 15, đất nước lại một phen chao đảo. Thăng Long lại trở thành điểm quyết chiến tối hậu chống quân xâm lược. Sau mười năm khởi nghĩa, năm 1427 Lê Lợi đưa đại quân về Thăng Long vây chặt quân Minh xâm lược. Bị áp đảo trước khí thế và sức mạnh của nghĩa quân, binh tướng nhà Minh phải thề ở cổng thành phía Nam, xin đầu hàng và được phép rút toàn bộ quân sĩ về nước.
Tới cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, lại chính Thăng Long là nơi người anh hùng "áo vải cờ đào" Nguyễn Huệ ghi nhiều chiến công, mà hiển hách nhất là chiến thắng Ðống Ða năm 1789. Với cuộc hành quân thần tốc, mùng 5 Tết năm ấy, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh tan 30 vạn quân lính Mãn Thanh xâm lược. Và trong chiến thắng đó có phần đóng góp của người dân Thăng Long.
Sang đầu thế kỷ 19, nhà Nguyễn (từ năm 1802-1945) đóng đô ở Huế. Thăng Long trở thành lỵ sở của tỉnh Hà Nội. Nhưng Hà Nội vẫn là nơi văn vật nhất nước, là thành phố đứng đầu cả nước về sự nghệ thuật, về công nghiệp, về thương nghiệp, về sự phong phú, về dân số, về lịch thiệp và về văn hóa. . . Tóm lại, đây chính là trái tim của cả dân tộc.
Những ngày đầu khi thực dân Pháp đặt chân đến, Hà Nội dần mất đi dáng vẻ thanh bình vốn có. Các công trình kiến trúc Pháp mọc lên san sát: nhà tù Hỏa Lò, Nhà hát Lớn, cầu Long Biên... Nhưng đằng sau sự hào nhoáng bề ngoài ấy là bóng tối của áp bức và bóc lột. Dưới chế độ thực dân, nhân dân Hà Nội sống trong cảnh lầm than, đói khổ. Tuy vậy, ngọn lửa đấu tranh chưa bao giờ tắt. Các phong trào yêu nước như Đông Kinh Nghĩa Thục, phong trào công nhân, học sinh sinh viên... nhen nhóm khắp nơi, khẳng định tinh thần không khuất phục của người Hà Nội.
Đặc biệt, vào mùa thu năm 1945, Hà Nội vỡ òa trong khí thế cách mạng. Những tiếng hô vang "Việt Nam độc lập!" dội khắp phố phường. Ngày 2 tháng 9 năm ấy, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – một khoảnh khắc thiêng liêng mà người dân Hà Nội không bao giờ quên.
Nhưng Hà Nội chưa kịp hưởng trọn niềm vui hòa bình thì thực dân Pháp quay lại. Đêm Hà Nội ngày 19 tháng 12 năm 1946, tiếng súng kháng chiến bùng nổ. Cả thành phố hóa thành chiến trường. Những con phố, ngôi nhà trở thành chiến lũy. Người dân Hà Nội không rời quê hương, mà quyết tâm "còn cái lai quần cũng đánh", chiến đấu đến cùng. Cuộc chiến kéo dài gần một thập kỷ, nhưng cuối cùng, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã chấm dứt ách đô hộ thực dân. Hà Nội được hoàn toàn giải phóng.
Chưa dừng lại ở đó, Hà Nội lại tiếp tục bước vào một cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Những năm tháng bom đạn ác liệt, đặc biệt là trong trận "Điện Biên Phủ trên không" cuối năm 1972, Hà Nội vẫn hiên ngang đứng vững. Dù phố phường tan hoang, dù mất mát đau thương, người Hà Nội vẫn bình tĩnh, kiên cường. Họ xuống hầm trú ẩn, rồi lại trèo lên cứu người, dọn dẹp, sửa chữa. Cả thành phố như một khối thép không thể gãy.
Ngày thống nhất đất nước 30/4/1975 là kết tinh của bao hy sinh, mất mát. Hà Nội từ đó hồi sinh trong hòa bình, nhưng ký ức về những tháng năm kháng chiến vẫn sống mãi trong từng con phố, từng mái nhà.
Ngày nay, khi dạo bước trên những con đường như Điện Biên Phủ, Tràng Tiền, Hàng Đào... ta vẫn thấy như vang vọng đâu đó tiếng loa gọi nhân dân đi kháng chiến, tiếng súng cầm cự giữa phố phường, và cả tinh thần Hà Nội – kiên cường, bất khuất, yêu nước và đầy tự hào.
Hà Nội của thời bao cấp là Hà Nội của những năm tháng gian khó mà nghĩa tình, nơi mỗi con người sống trong cảnh thiếu thốn nhưng vẫn giữ vững niềm tin, sự tử tế và lòng nhân hậu. Giữa tiếng leng keng của tàu điện, tiếng gọi nhau í ới ngoài đầu ngõ, Hà Nội hiện lên mộc mạc, chân chất như chính con người nơi đây.
Thời bao cấp, người dân Hà Nội sống dựa vào tem phiếu. Gạo, thịt, vải vóc, thậm chí là xà phòng hay que diêm – tất cả đều phải mua theo định lượng. Người ta xếp hàng từ sáng sớm, tay cầm chiếc làn mây và cuốn sổ gạo nhàu nhĩ. Cái cảnh “xếp hàng cả buổi, mua được hai lạng thịt ba chỉ” không còn xa lạ. Dẫu nghèo, dẫu kham khổ, nhưng người Hà Nội vẫn giữ nếp sống thanh lịch: ăn mặc chỉn chu, nói năng nhỏ nhẹ, và luôn quan tâm đến nhau bằng những cử chỉ giản dị mà ấm áp.
Phố xá Hà Nội thời ấy chưa đông đúc, náo nhiệt như bây giờ. Xe đạp là phương tiện chính, tàu điện leng keng chạy qua những con phố cổ. Mỗi buổi sáng, lũ trẻ con í ới gọi nhau đi học, mang theo cơm nắm muối vừng, còn người lớn thì cặm cụi đạp xe đi làm, áo sơ mi phẳng phiu dù đã bạc màu. Những hàng nước chè bên hè phố, chiếc ghế gỗ con con, tiếng quạt tay lật phật – tất cả tạo nên một Hà Nội rất riêng, rất tình.
Cuộc sống thời bao cấp không có nhiều lựa chọn. Quán ăn hiếm hoi, cửa hàng mậu dịch quốc doanh là nơi ai cũng ghé qua, dù hàng hóa bên trong thường chỉ vài món đơn sơ. Nhưng có lẽ chính sự thiếu thốn ấy lại nuôi dưỡng tinh thần sẻ chia, gắn bó. Hàng xóm như người một nhà, “bát cơm sẻ nửa, củ khoai bẻ đôi” – tình người đong đầy trong từng bữa cơm đạm bạc.
Hà Nội thời bao cấp không chỉ là ký ức của một giai đoạn kinh tế, mà còn là tâm hồn của một thế hệ. Nó nhắc chúng ta nhớ về sự chịu thương chịu khó, về những năm tháng dẫu gian nan mà vẫn đầy ắp tiếng cười. Và giữa dòng chảy hiện đại hôm nay, đôi khi người ta vẫn tìm thấy đâu đó bóng dáng của Hà Nội xưa – trong một góc phố cũ, một tiếng rao trầm buồn, hay một làn gió thơm mùi lá bàng rơi.
Hà Nội – mảnh đất nghìn năm văn hiến – đã đi qua không ít thăng trầm của lịch sử. Nếu thời bao cấp là những năm tháng khó khăn, chắt chiu từng hạt gạo, tấm áo, thì từ sau Đổi Mới năm 1986 đến nay, Hà Nội như chiếc nụ hoa vừa hé nở, dần bung cánh rực rỡ trong thời đại mới: năng động, hiện đại mà vẫn giữ được cái hồn xưa cũ.
Những năm đầu sau khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Hà Nội bắt đầu thay đổi từng ngày. Các cửa hàng mậu dịch quốc doanh dần lui vào dĩ vãng, thay vào đó là những quán xá tư nhân đầu tiên, mang hơi thở mới mẻ và cởi mở. Người Hà Nội không còn phải xếp hàng mua nhu yếu phẩm bằng tem phiếu. Những chiếc xe đạp Thống Nhất dần nhường chỗ cho xe máy, rồi ô tô. Nhà cửa bắt đầu xây cao tầng, phố phường trở nên nhộn nhịp, náo nhiệt hơn bao giờ hết.
Bước sang thế kỷ XXI, Hà Nội như lột xác. Những đại lộ thênh thang xuất hiện, tàu điện hiện đại dần thay thế tàu điện leng keng năm nào. Những tòa cao ốc mọc lên san sát, trung tâm thương mại, khu đô thị mới nối dài như những minh chứng cho tốc độ phát triển không ngừng của Thủ đô. Hà Nội hôm nay là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và đối ngoại lớn nhất cả nước – là trái tim sôi động của Việt Nam thời hội nhập.
Thế nhưng, giữa sự chuyển mình mạnh mẽ ấy, Hà Nội vẫn giữ cho mình những khoảng lặng rất riêng. Đó là tiếng rao đêm trên những con phố nhỏ, là quán trà đá đầu ngõ, là mùi cốm làng Vòng mùa thu, hay tiếng chuông chùa Trấn Quốc ngân vang mỗi sớm mai. Đó là Hồ Gươm với cầu Thê Húc đỏ rực, là phố cổ với những mái ngói phủ màu thời gian. Người Hà Nội, dù bây giờ sống trong thành phố đông đúc, hiện đại hơn, nhưng vẫn giữ cho mình nét tinh tế, thanh lịch, sâu lắng rất riêng của đất kinh kỳ.
Hà Nội sau thời bao cấp là một hành trình đầy nỗ lực và kiêu hãnh. Từ những ngày khó khăn, vươn lên trong gian khổ, Hà Nội hôm nay đã trở thành biểu tượng của sự đổi thay và hội nhập. Nhưng trong tận sâu tâm hồn mỗi người con đất Việt, Hà Nội không chỉ là nơi để sống – mà còn là nơi để nhớ, để yêu, để tìm lại những gì mộc mạc, thân thương nhất giữa guồng quay hiện đại.